Sang năm 2025, tuổi nghỉ hưu của người lao động sẽ thay đổi ra sao?
27/08/24

Theo khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và Điều 4 Nghị định 135/2020/NĐ-CP, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.
Cụ thể, kể từ ngày 1/1/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.
Như vậy, tuổi nghỉ hưu năm 2025 của người lao động trong điều kiện lao động bình sẽ là: 61 tuổi 3 tháng đối với nam và 56 tuổi 8 tháng đối với nữ.
Theo Điều 169 và Điều 219 Bộ luật Lao động năm 2019 và hướng dẫn tại Nghị định 135/2020/NĐ-CP, những người lao động làm việc trong điều kiện bình thường sinh vào các tháng sau đây sẽ được xem xét nghỉ hưu trong năm 2025:
- Đối với lao động nam: Sinh vào tháng 12/1963 đến tháng 8/1964
- Đối với lao động nữ: Sinh vào tháng 8/1968 đến tháng 3/1969
Điều kiện hưởng lương hưu đến ngày 30/6/2025
Cụ thể, từ ngày 1/1/2025 đến hết ngày 30/6/2025, nội dung quy định về điều kiện hưởng lương hưu sẽ áp dụng theo
Luật Bảo hiểm xã hội 2014.
Theo đó, người lao động đáp ứng các điều kiện sau sẽ được hưởng lương hưu:
(1) Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đủ tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019;
- Đủ tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021;
- Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò;
- Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
(2) Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019, trừ trường hợp Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Công an nhân dân, Luật Cơ yếu, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có quy định khác;
- Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021;
- Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
(3) Lao động nữ là cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 thì được hưởng lương hưu.
(4) Điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với một số trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.
(Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, sửa đổi bởi Điểm a Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019)
Nguồn từ: Cafef.vn

Bài viết này được cung cấp nhằm mục đích thông tin và tham khảo chung. Mặc dù đã cố gắng đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin và dữ liệu được trình bày, Tititada không chịu trách nhiệm pháp lý về bất kỳ sai sót hoặc thiếu sót nào có thể xảy ra. Bài viết không nhằm mục đích cung cấp lời khuyên tài chính, pháp lý, hoặc bất kỳ loại lời khuyên chuyên môn nào khác. Nếu bạn cần lời khuyên cụ thể, bạn nên tìm đến một chuyên gia hoặc cố vấn đáng tin cậy.

Tititada - Đầu tư chứng khoán cùng chuyên gia
Đầu tư chứng khoán với số tiền bất kỳ, với trải nghiệm đơn giản, dễ dàng, dành riêng cho nhà đầu tư mới tham gia thị trường.



Bài viết liên quan

ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng của Việt Nam
25/09/24

Doanh nghiệp bánh kẹo rục rịch tăng giá
25/09/24

Giá vàng thế giới vẫn tăng
25/09/24

Tổng bí thư, Chủ tịch nước đề nghị IMF hỗ trợ Việt Nam tái cơ cấu kinh tế
25/09/24

Doanh nghiệp nên được hỗ trợ thế nào sau bão?
24/09/24

UOB hạ dự báo tăng trưởng Việt Nam do bão Yagi
24/09/24

Giá dầu tăng cao vì căng thẳng Trung Đông
24/09/24

TRUY TỐ cựu Bí thư Tỉnh ủy
24/09/24

Bà Nguyễn Phương Hằng trở lại điều hành khu du lịch Đại Nam
24/09/24

Sau Bắc Ninh, thêm một tỉnh vừa thu hút được hơn 6 tỷ USD cho 17 dự án
24/09/24

Giá heo hơi tăng lên 70.000 đồng một kg
24/09/24

Trung Quốc tung thêm loạt chính sách kích thích kinh tế
24/09/24
Giá vàng miếng lên 83,5 triệu đồng
24/09/24

Việt Nam dự kiến tiêu thụ một triệu ôtô vào 2030
24/09/24

Giá vàng thế giới tiếp tục chuỗi tăng
24/09/24

Không dễ thành 'kỹ sư AI lương tháng 50 triệu'
24/09/24

Bộ Công Thương dự kiến tiêu thụ một triệu ôtô vào 2030
23/09/24

Chứng khoán được dự báo 'sớm trở lại mốc 1.300 điểm'
23/09/24

Công ty sợi kinh doanh thêm bất động sản sau hai năm thua lỗ
23/09/24

Nhật Bản sẽ giúp Việt Nam tăng hiệu quả thị trường chứng khoán
23/09/24

EuroCham Việt Nam có chủ tịch mới
23/09/24

Sứ mệnh doanh nghiệp tư nhân lớn trước “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”
23/09/24

Hơn 60.000 tỷ đồng tiêu tan vì bão số 3 càn quét
23/09/24

Dầu Nga vào Ấn Độ giảm gần 20%
23/09/24