Điểm nhấn chính:
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt nguồn từ tín dụng rẻ và các tiêu chuẩn cho vay lỏng lẻo, từ đó thúc đẩy bong bóng nhà đất.
- Khi Fed tăng lãi suất để hạ nhiệt thị trường, điều này gây ra sự sụp đổ ở thị trường BĐS khi các nhà đầu tư vỡ nợ hàng loạt trên các khoản cho vay mua nhà.
- Các ngân hàng bị bỏ lại với hàng nghìn tỷ đô la trong những khoản đầu tư dần trở nên vô giá trị trong các khoản thế chấp dưới chuẩn.
- Cuộc Đại suy thoái diễn ra sau đó đã khiến họ mất nhiều việc làm, tiền tiết kiệm và nhà cửa.
Sự hình thành của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 đã diễn ra trong vài năm trước đó; nó không bỗng chốc mà xảy ra. Mọi chuyện bắt đầu từ hàng loạt các sự kiện và hoạt động tài chính rủi ro ở nền kinh tế lớn nhất thế giới, Mỹ.
Đến mùa hè năm 2007, các thị trường tài chính trên toàn thế giới mới bắt đầu thực sự cảm nhận được những dấu hiệu rủi ro một cách rõ ràng hơn, sau một khoảng thời gian dài say mê với các khoản tín dụng giá rẻ với lãi suất gần như bằng 0%. Hàng loạt các sự kiện phát đi tín hiêu cho một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể kể đến như là: hai quỹ phòng hộ của ngân hàng Bear Stearns sụp đổ, ngân hàng BNP Paribas cảnh báo các nhà đầu tư rằng họ có thể không rút được tiền từ ba trong số các quỹ của họ, hay ngân hàng Anh Northern Rock gấp rút tìm kiếm nguồn tài trợ khẩn cấp từ Ngân hàng Trung ương Anh.
Tuy nhiên, bất chấp những dấu hiệu cảnh báo, rất ít nhà đầu tư nghi ngờ rằng sắp tới sẽ xảy ra cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong gần 8 thập kỷ nhấn chìm hệ thống tài chính toàn cầu, khiến những gã khổng lồ Phố Wall phải quỳ gối và gây ra cuộc Đại suy thoái.
Đó là một sự sụp đổ kinh tế và tài chính hoành tráng khiến nhiều người mất việc làm, tiền tiết kiệm cả đời, nhà cửa hoặc tất cả mọi thứ, là một kiến thức đầu tư tài chính mà bất cứ ai cũng phải tìm hiểu khi tham gia thị trường.
Tại Việt Nam, nền kinh tế cũng đã chịu tác động đáng kể và rõ nét từ cuộc đại khủng hoảng tài chính toàn cầu khủng hoảng tài chính toàn cầu này. Tương tự, Việt Nam cũng đã phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi suất ngân hàng cao, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, thị trường chứng khoán bị sụt giảm mạnh…
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu được “gieo mầm” như thế nào?
Mầm mống của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã được “gieo trồng” trong những năm mà lãi suất chạm đáy và các tiêu chuẩn cho vay hiện hành lúc đó là rất lỏng lẻo, thúc đẩy bong bóng giá nhà đất ở Mỹ và các nơi khác leo thang nhanh chóng.
Như một điều bình thường trong nền kinh tế, mọi chuyện bắt đầu với mục đích tốt. Khi nước Mỹ phải đối mặt với sự bùng nổ của bong bóng dot-com, một loạt vụ bê bối kế toán doanh nghiệp và vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã phải hạ lãi suất quỹ liên bang từ 6.5% vào tháng 5/2000 xuống 1% vào tháng 6/2003. Mục đích là để thúc đẩy nền kinh tế bằng cách cung cấp tiền cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng ở mức giá hời.
Kết quả là giá nhà tăng nhanh theo một cơn lốc nhu cầu khi những người đi vay lợi dụng lãi suất vay nha sieu rẻ để vay mua nhà. Ngay cả những người vay có mức tín nhiệm tín dụng thấp hay dưới chuẩn hay thậm chí không có lịch sử tín dụng, cũng có thể hiện thực hóa giấc mơ mua nhà, vì lúc đó, điều kiện để được chấp thuận cho khoản vay là rất dễ và lỏng lẻo.
Các ngân hàng sau khi cho vay đã bán các khoản vay đó cho các ngân hàng lớn ở Phố Wall, các ngân hàng này đã gộp chúng lại, hay nói cách khác là chứng khoán hóa chúng, thành những công cụ tài chính có rủi ro thấp như là Chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp (MBS) và Nghĩa vụ nợ được thế chấp (CDO). Chẳng mấy chốc, một thị trường thứ cấp lớn dành cho việc tạo ra và phân phối các khoản cho vay dưới chuẩn được hình thành.
Thúc đẩy việc chấp nhận rủi ro nhiều hơn giữa các ngân hàng, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) vào tháng 10/2004 đã nới lỏng các yêu cầu về vốn ròng đối với năm ngân hàng đầu tư trọng yếu gồm, Goldman Sachs, Merrill Lynch, Lehman Brothers, Bear Stearns và Morgan Stanley. Điều đó giúp họ tự do sử dụng đòn bẩy trên các khoản đầu tư ban đầu của mình lên tới 30 lần hoặc thậm chí 40 lần.
Dấu hiệu của những rắc rối dần bộc phát
Cuối cùng, lãi suất cũng bắt đầu có xu hướng tăng trở lại và việc mua nhà cũng đạt đến điểm bão hòa. Fed bắt đầu tăng lãi suất vào tháng 6/2004, và hai năm sau, lãi suất quỹ liên bang đã tăng lên 5.25%, giữ nguyên cho đến tháng 8/2007.
Đã có những dấu hiệu sớm chỉ ra tình trạng nguy kịch tài chính. Như là đến năm 2004, tỷ lệ sở hữu nhà ở Mỹ đã đạt mức cao nhất là 69.2%. Nhưng sau đó, vào đầu năm 2006, giá nhà bắt đầu giảm. Điều này thực sự gây khó khăn cho nhiều người Mỹ, khi những ngôi nhà của họ ngày càng có giá trị thấp hơn so với những gì họ đã trả cho chúng. Họ không thể bán nhà khi mà vẫn còn mắc nợ vay mua nhà ở mức cao. Nếu họ có các khoản vay mua nhà với lãi suất có thể điều chỉnh, chi phí của họ sẽ tăng lên khi lãi suất thị trường tăng lên, và sẽ khiến giá trị ngôi nhà của họ giảm xuống. Những người đi vay dưới chuẩn bị ảnh hưởng rất lớn bởi lãi suất gia tăng, và điều này đã làm cho họ bị mắc kẹt với các khoản thế chấp mà họ không có khả năng chi trả.
Ví dụ điển hình của những dấu hiệu cảnh báo là công ty cho vay mua nhà dưới chuẩn New Century Financial đã cho vay gần 60 tỷ USD trong năm 2006, và tới năm 2007, họ đã phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Cũng như vậy, khi năm 2007 bắt đầu, hết người cho vay dưới chuẩn này đến người khác nộp đơn xin phá sản. Trong tháng 2 và tháng 3, hơn 25 công ty cho vay dưới chuẩn đã phá sản.
Tuy là vậy, đây chỉ là những vấn đề nhỏ so với những gì xảy ra trong những tháng sau đó, khi quy mô của cuộc khủng hoảng dần lan rộng ra khỏi lãnh thổ của nước Mỹ.
Tháng 8/2007: Mọi thứ sụp đổ theo hiệu ứng Domino
Vào tháng 8/2007, mọi thứ trở nên rõ ràng là thị trường tài chính không thể giải quyết cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn và các vấn đề đó dần lan rộng ra ngoài biên giới của Mỹ.
Thị trường liên ngân hàng, nơi mà giữ tiền di chuyển trên toàn cầu đã đóng băng hoàn toàn, phần lớn là do nỗi sợ hãi về những điều chưa biết rõ. Northern Rock đã phải tiếp cận Ngân hàng Trung ương Anh để xin tài trợ khẩn cấp do các vấn đề về thanh khoản. Vào tháng 10/2007, ngân hàng Thụy Sĩ UBS đã trở thành ngân hàng lớn đầu tiên công bố khoản lỗ 3.4 tỷ USD, đến từ các khoản đầu tư liên quan đến nợ dưới chuẩn.
Trong những tháng sau đó, Fed và các ngân hàng trung ương khác đã phối hợp hành động để cung cấp các khoản vay hàng tỷ đô la cho thị trường tín dụng toàn cầu, vốn đang bị đình trệ do giá tài sản giảm quá nhanh. Trong khi đó, các tổ chức tài chính gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá lại giá trị của hàng nghìn tỷ đô la Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp (MBS) độc hại hiện đang nằm trên sổ sách của họ.
Tháng 3/2008: Sự sụp đổ của Bear Stearns
Vào tháng 1/2008, Fed đã cắt giảm lãi suất cơ bản xuống ¾ điểm phần trăm, là mức cắt giảm lớn nhất trong 25 năm, khi họ đang cố gắng tìm cách làm chậm đà trượt dốc của nền kinh tế.
Nhưng tin xấu lại tiếp tục ập đến từ mọi phía. Vào tháng 2, chính phủ Anh buộc phải quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock. Vào tháng 3, ngân hàng đầu tư toàn cầu Bear Stearns, một trụ cột của Phố Wall có từ năm 1923, đã sụp đổ và được JPMorgan Chase mua lại chỉ bằng một số tiền rất nhỏ.
Và đến mùa đông năm 2008, nền kinh tế của Mỹ rơi vào suy thoái toàn diện, và khi các cuộc đấu tranh thanh khoản của các tổ chức tài chính tiếp tục diễn ra, thị trường chứng khoán trên toàn thế giới đã sụt giảm mạnh nhất kể từ sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 (Mỹ).
Tháng 9/2008: Sự sụp đổ của Lehman Brothers
Vào mùa hè năm 2008, cuộc tàn sát đã lan rộng khắp mọi ngóc ngách của lĩnh vực tài chính. Ngân hàng IndyMac trở thành một trong những ngân hàng lớn nhất từng phá sản ở Mỹ, và hai công ty cho vay mua nhà lớn nhất của đất nước này, Fannie Mae và Freddie Mac, đã bị chính phủ Mỹ tịch thu.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của một trong những ngân hàng khổng lồ nhất trên Phố Wall, Lehman Brothers vào tháng 9 mới là vụ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử của Mỹ và đối với nhiều người, nó đã trở thành biểu tượng của sự tàn phá do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gây ra.
Cùng tháng đó, thị trường tài chính lao dốc tự do, với các chỉ số chính của Mỹ chịu một khoản lỗ tồi tệ kỷ lúc nhất vào lúc đó. Fed, Bộ Tài chính, Nhà Trắng và Quốc hội đã phải vật lộn để đưa ra một kế hoạch toàn diện nhằm cầm máu và khôi phục niềm tin vào nền kinh tế.
Năm 2008 tại Việt Nam
Trước những dấu hiệu lạm phát gia tăng từ cuối năm 2007, đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều hành thị trường với chính sách tiền tệ thắt chặt. Những động thái đầu tiên được thực hiện gồm: quy định tỷ lệ dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; tăng lãi suất cơ bản lên mức 8.75%/năm (+ 0.5%); và phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc để hút tiền về từ các ngân hàng thương mại. Tuy với mục đích tốt, nhưng những biện pháp này đã gây ra “cú sốc” đối với nền kinh tế.
Theo sau đó, trong tháng 5 và 6/2008, lãi suất cơ bản tiếp tục được nâng lên 12%, rồi 14%. Đặc biệt hơn là lãi suất huy động đã có lúc vượt trên ngưỡng 20%/năm, khiến nhiều doanh nghiệp, tổ chức tài chính phải chấp nhận nhiều rủi ro về việc thực hiện nghĩa vụ trả lãi để tồn tại.
Trong giai đoạn này, tỷ giá VND/USD cũng có nhiều biến động mạnh, chủ yếu là theo chiều hướng tăng do Fed (Mỹ) lúc đó thực hiện tăng lãi suất khá mạnh tay để kiểm soát lạm phát, khiến đồng đô la cũng dần lấy lại giá trị của nó và tăng theo.
Chỉ cho tới cuối tháng 10/2008, Chính phủ mới can thiệp với những động thái ngược lại so với trước đó thông qua chính sách tiền tệ nới lỏng. NHNN dần hạ mặt bằng lãi suất để cải thiện thanh khoản của thị trường cũng như của các ngân hàng thương mại. Cụ thể, trong quý IV, lãi suất cơ bản được điều chỉnh giảm mỗi tháng 1%, và đạt mức 10%/năm trong tháng 12. Từ đó, nền kinh tế dần phục hồi và bình ổn trở lại.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Gói cứu trợ Phố Wall được thông qua vào tuần đầu tiên của tháng 10/2008, và tổng lên tới 1,488 tỷ USD. Gói này bao gồm nhiều biện pháp, chẳng hạn như chính phủ mua một lượng lớn "tài sản độc hại", đầu tư một khoản khổng lồ vào cổ phiếu các ngân hàng, và cứu cánh tài chính cho Fannie Mae và Freddie Mac.
Cụ thể, 30 tỷ USD dành cho cứu trợ Bear Stearns, 187 tỷ USD cho Fannie và Freddie, 440 tỷ USD cho Chương trình cứu trợ tài sản gặp khó khăn (TARP), và 831 tỷ USD tài trợ cho giảm thuế và kích thích chi tiêu. Ngoài ra, số tiền mà chính phủ Mỹ thu lại được từ TARP, sau khi bán lại các tài sản đó là 442.6 tỷ USD.
Sự phẫn nộ của công chúng lan rộng. Bởi dường như các ngân hàng đang được chính phủ thưởng cho vì đã “liều lĩnh” đẩy nền kinh tế xuống vực thẳm. Dù là vậy, nhờ những ngân hàng đó mà nền kinh tế đã được vận hành trở lại. Đồng thời, cũng cần lưu ý rằng các khoản đầu tư vào ngân hàng đã được chính phủ thu hồi toàn bộ, kèm theo một khoản lãi.
Việc ban hành các gói cứu trợ đã ổn định thị trường chứng khoán, sau khi chạm đáy vào tháng 3/2009, và rồi giúp nó bước vào thị trường tăng giá dài nhất trong lịch sử.
Tuy nhiên, thiệt hại kinh tế và sự đau khổ của con người là vô cùng lớn. Tỷ lệ thất nghiệp lên tới 10%. Khoảng 3.8 triệu người Mỹ bị mất nhà do bị tịch thu vì không thể thanh toán các khoản nợ thế chấp với lãi vay ngất ngưỡng.
Về Dodd-Frank
Nỗ lực tham vọng và gây tranh cãi nhất để ngăn chặn những sự kiện trên xảy ra lần nữa là việc thông qua Đạo luật “Dodd-Frank” Cải cách Phố Wall và Bảo vệ Người tiêu dùng vào năm 2010. Về mặt tài chính, đạo luật này đã hạn chế một số hoạt động rủi ro của các ngân hàng lớn nhất, tăng cường giám sát của chính phủ đối với các hoạt động của các ngân hàng đó, và buộc họ phải duy trì dự trữ tiền mặt lớn hơn. Về phía người tiêu dùng, nó đã cố gắng giảm các hoạt động cho vay cắt cổ.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 là một sự kiện toàn cầu chứ không chỉ giới hạn ở Hoa Kỳ. Nền kinh tế sôi động của Ireland đã rơi xuống vực thẳm. Hy Lạp vỡ nợ trên các khoản vay quốc tế. Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bị thất nghiệp ở mức độ nghiêm trọng. Trải nghiệm của mỗi quốc gia là rất khác nhau và phức tạp.
Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp (MBS) là gì?
Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp tương tự như trái phiếu. Nó bao gồm các khoản cho vay mua nhà được gộp lại với nhau và được bán bởi các ngân hàng cho các nhà đầu tư lớn ở Phố Wall vay tiền. Mục tiêu mua MBS là để thu lợi nhuận từ tiền lãi cho vay được trả bởi những người nắm giữ thế chấp.
Vào đầu những năm 2000, những người cho vay đã khuyến khích hàng triệu người vay ở mức vượt quá khả năng chi trả của họ để mua nhà. Các khoản vay sau đó được gửi đến các nhà đầu tư dưới hình thức MBS.
Là điều không thể tránh khỏi, những người đi mua nhà với khoản vay vượt quá khả năng tài chính của họ bắt đầu vỡ nợ. Giá nhà đất giảm và hàng triệu người từ bỏ các khoản thế chấp có giá cao hơn giá trị của ngôi nhà. Điều này đã khiến các khoản đầu tư vào MBS chịu khoản lỗ lớn, khi người đi vay ngừng thanh toán các nghĩa vụ nợ của họ.
Ai chịu trách nhiệm cho cuộc Đại suy thoái?
Nhiều nhà kinh tế đổ lỗi lớn nhất cho các chính sách cho vay mua nhà lỏng lẻo đã cho phép nhiều người tiêu dùng vay nhiều hơn khả năng chi trả của họ. Nhưng thực ra có rất nhiều lỗ hổng khác trong nền kinh tế, bao gồm:
- Những kẻ cho vay nặng lãi đã tiếp thị nhà cửa, BĐS cho những người không có khả năng thanh toán các khoản thế chấp mà họ được đề xuất cho.
- Các bậc thầy đầu tư đã mua những khoản thế chấp xấu đó và gộp chúng thành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư khác.
- Các cơ quan xếp hạng đầu tư đã xếp hạng tốt cho các gói thế chấp MBS đó, làm cho chúng nhìn có vẻ an toàn.
- Các nhà đầu tư đã không kiểm tra kỹ xếp hạng tín nhiệm của các khoản thế chấp hay tổ chức cho vay.
Bong bóng tài chính
Bong bóng tài chính cũng là kiến thức đầu tư tài chính cơ bản mà nhà đầu tư cần tim hiểu vì nó thường xuyên xảy ra trong thế giới tài chính. Giá của một cổ phiếu hoặc bất kỳ hàng hóa, tài sản nào khác có thể bị thổi phồng lên vượt quá giá trị nội tại của nó. Thông thường, thiệt hại chỉ giới hạn ở mức thua lỗ đối với một số người mua bị xoáy vào đà tăng nóng đó.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008 là một loại bong bóng khác. Chỉ giống như một vài trường hợp khác trong lịch sử, nó đã phát triển đủ lớn để khi bùng nổ, nó đã gây thiệt hại cho toàn bộ nền kinh tế và làm tổn thương hàng triệu người, trong đó có nhiều người không đầu cơ vào chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp (MBS).
Bài viết này được cung cấp nhằm mục đích thông tin và tham khảo chung. Mặc dù đã cố gắng đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin và dữ liệu được trình bày, Tititada không chịu trách nhiệm pháp lý về bất kỳ sai sót hoặc thiếu sót nào có thể xảy ra. Bài viết không nhằm mục đích cung cấp lời khuyên tài chính, pháp lý, hoặc bất kỳ loại lời khuyên chuyên môn nào khác. Nếu bạn cần lời khuyên cụ thể, bạn nên tìm đến một chuyên gia hoặc cố vấn đáng tin cậy.
Tititada - Đầu tư chứng khoán cùng chuyên gia
Đầu tư chứng khoán với số tiền bất kỳ, với trải nghiệm đơn giản, dễ dàng, dành riêng cho nhà đầu tư mới tham gia thị trường.